Chánh văn phần 1
Cho nên vườn này có tên là vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc.
Sao gọi là Cấp Cô Độc? - Cấp là ban cho, cũng tức là bố thí. Vì ông trưởng giả Tu-đạt-đa chuyên môn bố thí cho những người già cả trẻ nít cô độc.
Thời Văn Vương nhà Chu, ở Trung Quốc cũng có cứu giúp bốn hạng người cùng khổ: Quan, quả, cô, độc. Quan là người già mà không có vợ. Quả là người già mà không có chồng. Cô là trẻ nít không có cha. Độc là người già mà không có con. Trưởng giả Tu-đạt-đa được tên Cấp Cô Độc là vì cứu giúp bốn hạng người này.
Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc ở nước Xá Vệ là Xứ thành tựu. Nhơn vì có người nói thì nhất định phải có nơi chỗ; không nơi chỗ, pháp sẽ không dễ gì nói được.
Cùng với đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị , là Chúng thành tựu. "Cùng" tức là chung nhau, tức là mọi người cùng đi theo một vị Thầy để học tập, cùng ở một chỗ, cùng học tập theo Phật pháp, cùng phát tâm Bồ-đề như nhau, cùng khai mở trí huệ như nhau, cùng chứng đắc quả vị như nhau, cùng đồng thành Phật. Vì những lý do như nhau ấy cho nên dùng chữ "cùng".
Đại Tỳ-kheo tăng, đầu tiên là nói về chúng Tỳ-kheo, vì Tỳ-kheo đều là hình tướng xuất gia. Kế đó nói đến chúng Bồ-tát, vì hình tướng Bồ-tát không nhất định, có lúc là tướng xuất gia, có lúc là tướng tại gia. Bồ-tát là những người tu theo trung đạo, cho nên để ở giữa, sau đó nói đến Thiên long Bát bộ, và sau cùng nói đến tất cả phàm phu tướng thế gian. Tướng xuất thế là Thánh nhân, Bồ-tát có lúc ở trong pháp hội, có lúc rời pháp hội đi đến thế giới khác. Tỳ-kheo là chúng thường theo Phật, theo Phật để nghe Kinh pháp. Cho nên khi kiết tập Kinh Tạng nêu chúng Tỳ-kheo ra trước.
"Đại" có ba nghĩa:
-Tỳ-kheo là người được quốc vương, đại thần sùng bái.
-Tỳ-kheo là người đoạn dứt tất cả phiền não.
-Tỳ-kheo là người phá trừ các ác nghiệp.
Tỳ-kheo không giống như người của các ngoại đạo khác, cho nên gọi là "thắng", nghĩa là vượt hơn tất cả ngoại đạo khác.
Tỳ-kheo lại có ba nghĩa:
1. Khất sĩ: Cầm bát xin ăn.
2. Bố ma: Khi có một người thọ trong giới đàn, thì Địa Hành Dạ-xoa liền đi báo với Không Hành Dạ-xoa, Không Hành Dạ-xoa tức tốc báo với Thiên ma. Thiên ma lo sợ nói: "Phật lại có thêm một đệ tử nữa. Quyến thuộc của ta ít đi một người rồi." Vì thế Thiên ma rất lo sợ, cung điện của Ma vương đều chấn động.
3. Phá ác: Khi Tỳ-kheo phát tâm Bồ-đề thì phá tám vạn bốn ngàn phiền não, cho nên gọi là phá ác.
Tăng già là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Hòa hợp chúng, tức là mọi người cùng ở một chỗ, không có chuyện hơn thua phải quấy, không tranh đấu lẫn nhau. Lại có "Sự hợp" và "Lý hợp." Thế nào là "Lý hợp"? Tức là mọi người cùng chứng Vô vi giải thoát. "Sự hợp" lại có sáu thứ:
1. Thân hòa đồng ở: Tăng chúng ở chung một chỗ, không hề tranh đấu lẫn nhau, mỗi thời mỗi khắc phải tự quản lý mình, không cho phạm lỗi, không làm phương hại đến người khác. Ví như mọi người đều không uống rượu mà mình lại uống rượu, mọi người đều không hút thuốc mà mình lại hút thuốc thì Tăng không hòa, sẽ không thể ở chung được. Cho nên nhất định phải giữ thanh quy, không cho phạm lỗi.
2. Miệng hòa không tranh: Không nên biện luận phải quấy với nhau. Không nên có kiểu thị phi: Nhà Trương tốt, nhà Lý xấu; ba con ễnh ương sáu con mắt... Phải miệng hòa không tranh cãi, không nên nói lý lẽ của thầy không đúng, còn lý lẽ của tôi mới đúng, mà tranh luận lăng xăng.
3. Ý hòa đồng vui vẻ: Mọi người cùng học Phật pháp. Anh tu trì tinh tấn, tôi lại càng tinh tấn hơn. Mọi người cùng tu hành tinh tấn hướng thượng. Chẳng nên mỗi ngày càng kém hơn. Phải nói chuyện ít đi, tu tập nhiều hơn thì ý niệm của mọi người sẽ hòa hợp.
4. Kiến hòa đồng giải: Mọi người đều có kiến giải giống nhau.
5. Giới hòa đồng tu: Mọi người cùng tuân giữ giới luật, đồng tu hành.
6. Lợi hòa đồng chia: Mọi người đều cùng vì lợi ích cộng đồng mà gắng sức.
Sáu thứ hòa hợp trên đây là "Sự hợp." một ngàn hai trăm năm mươi vị... là tăng chúng thường theo Phật. Phật đến địa phương nào nói pháp, những vị này nhất định đều có đi theo. Không luận là Phật nói những Kinh họ đã nghe hay chưa, họ nhất định vẫn đi theo Phật để nghe thuyết pháp. Cơ bản vẫn thường là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Phật trước độ năm vị Tỳ-kheo, rồi đến trưởng giả tử Da-xá và bốn mươi chín người đệ tử của ông. Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên mỗi người có một trăm đệ tử cùng theo thầy quy y Phật, ngoài ra ba anh em Đại-Ca-diếp và một ngàn vị đệ tử cũng theo thầy quy y Phật. Vì thế cộng chung là một ngàn hai trăm năm mươi người. Ba anh em ông Ca-diếp cộng chung có một ngàn đệ tử. Trong đó, năm trăm người là đồ đệ của Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Ca-diếp là tiếng Phạn. Trung Quốc dịch là Đại Quy thị. Ưu-lâu-tần-loa dịch là Mộc Qua lâm. Có người nói: Vì ông ở trong rừng Mộc Qua tu hành. Lại có người nói: Vì trước ngực ông có một cái bướu lớn như trái Mộc Qua (trái dưa). Cũng có người nói: — ngực lõm xuống như hình trái dưa. Tóm lại có thể là như thế. Tôi nghĩ rằng ông ta rất khoái ăn dưa, cho nên khi tu hành trên thân mới mọc ra một cái bướu thịt hình trái dưa như thế. Đặc tính của dưa là bổ phổi, nếu có bịnh phổi nên ăn nhiều dưa vào.
Mộc Qua lâm Ca-diếp có hai người em, một người tên là Già-da là tên núi, Trung Quốc dịch là Tượng Đầu sơn (núi Đầu Voi); còn người kia tên là Na-đề, Trung Quốc dịch là Hà (sông) hoặc Thành. Tôi cho rằng con sông này ở bên thành, cho nên hai nghĩa đều dùng được. Hai người này tổng cộng có năm trăm đệ tử, cho nên ba anh em có một ngàn đệ tử.
Phật giáo hóa chúng sanh, trước tiên độ năm vị Tỳ-kheo ở vườn Lộc Dã, sau đó đáng phải độ ai? Ngài mới quan sát thấy ba anh em ông Ca-diếp cơ duyên đã thành thục, đáng được hóa độ. Bấy giờ Phật đi đến chỗ của ông Đại Ca-diếp, nhưng Ngài không nói thẳng ra: "Tôi đến để độ bọn ông, các ông có tin không?", mà chỉ xử dụng pháp môn phương tiện quyền xảo. Ngài nói: "Bây giờ trời đã tối, tôi có thể nghỉ nhờ một đêm được không?"
Đại Ca-diếp là người tu hành theo đạo thờ Lửa rất lâu, lúc đó đã một trăm sáu mươi tuổi, thấy Phật không giống với người bình thường, nhưng ông ta nhìn không ra lai lịch của Phật và nhơn duyên gì Phật đến đây. Ông rất lấy làm lạ, tại sao bình thường, về lai lịch của bất cứ ai, hễ nhìn đến là ông biết ngay, mà hôm nay không cách gì hiểu được ông này là ai. Vì thế ông mới đưa Phật đến trong động một con rồng lửa. Con rồng lửa này là Hộ pháp của ông ta. Bất cứ người nào đi vào trong động đó liền bị rồng lửa thiêu chết ngay. Canh ba đêm ấy, rồng lửa muốn đốt chết Phật, nhưng Đức Phật dùng Hỏa quang Tam-muội đối phó lại, vô hiệu pháp thuật của nó, thâu nó vào bát và thuyết pháp cho nó nghe, cũng giống như việc Lục Tổ Đại sư thâu độc long vào trong bát, nhưng Phật không nói như Tổ: "Ngươi chỉ có thể biến ra lớn mà không thể biến lại nhỏ chui vào trong bát của ta." Phật chỉ rất tự nhiên thâu nó vào trong bát, thuyết pháp cho nó nghe; rồng lửa liền quy y Phật.
Sau đó Phật hiển hiện các thứ thần thông, Đại Ca-diếp nhìn thấy, tự biết mình không bằng Phật, không có những đạo lực to lớn như thế, bèn xin quy y Phật. Sau khi quy y chẳng bao lâu, ông chứng được Thánh quả; năm trăm đệ tử của ông cũng theo ông quy y Phật và đều xuất gia. Hai người em của ông thấy anh mình theo Phật nên hai người cũng dắt năm trăm đệ tử cùng xuất gia theo Phật. Xuất gia không bao lâu họ đều chứng được Thánh quả. Nhơn đó gộp chung thành một ngàn hai trăm năm mươi vị. Những người này vì cảm tạ ơn sâu từ bi giáo hóa của Phật nên bất luận Phật đến thuyết pháp chỗ nào, các Ngài đều cùng theo Phật làm chúng Tỳ-kheo nghe pháp trong pháp hội. Cũng như quý vị nghe kinh hiện giờ, dù có người đã được nghe rồi nhưng vẫn trung thành hộ pháp. Ví như có vị đệ tử đi dạy học ở nơi xa, nhưng mỗi kỳ thứ bảy vẫn trở về đây tham gia pháp hội và làm Phật sự trong hai ngày cuối tuần. Đó là do lòng chơn thành hộ pháp của vị ấy. Lại có một đệ tử, dù có trăm công ngàn việc bận rộn vẫn thu xếp đến nghe kinh. Lao tác cả ngày bận rộn, rất là mệt nhọc, nhưng vẫn đến nghe kinh, thật là rất có lòng thành.
Câu hội, là mọi người đều hội họp ở một chỗ.
Đều là bậc đại A-la-hán, những người nhóm họp một chỗ đều là bậc đại A-la-hán cả. A-la-hán là tiếng Phạn, có ba nghĩa rất gần với nghĩa của Tỳ-kheo. Tỳ-kheo là nhân của A-la-hán, còn La-hán là quả của Tỳ-kheo.
Ba nghĩa của La-hán là:
1. Ứng cúng: — nhân là Khất sĩ, nên ở quả đáng được người, trời cúng dường.
2. Vô sanh: Trong nhân là Bố ma, nghĩa là làm cho ma sợ, làm cho "ma phiền não" sợ, làm ma chết sợ, thì quả đắc là vô sanh.
3. Sát tặc: Nhân là phá ác, nên quả gọi là Sát tặc, giết giặc vô minh, giết giặc phiền não.
Phá ma ngũ ấm và ma phiền não cùng ma chết. Chết cũng là một thứ ma. Giống như người tu hành tinh tấn nhưng khi có bịnh gần chết, thời nổi lên sợ sệt, đây tức là bị ma chết quấy động. Người chân thật tu hành phải không sợ sống cũng không sợ chết. Sống tức là chết, chết tức là sống, phải xem sống và chết như nhau, thì lòng dục vọng mới không sanh khởi. Nếu chết rồi thì sao lại có tâm dâm dục, tâm tham sân si mạn nghi ư? Lúc đó, tất cả phiền não đều không có, sẽ đạt đến cảnh giới hoàn toàn an lạc. Nhưng mà cảnh giới này không dễ gì đến được, tuy nhiên cũng không phải là khó khăn, chỉ cần quyết tâm mà thôi.
Đều là bậc đại A-la-hán, mọi người đều biết đến. Những vị đại A-la-hán này đều là những bậc đạo cao, đức trọng, người người đều biết tiếng.
Đó là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma ha Mục-kiền-liên.
Trưởng lão là tiếng tôn xưng người lớn tuổi. Trưởng lão có ba hạng:
1. Niên kỳ trưởng lão: Kỳ là người tuổi già. Tuổi già là người có tuổi tác rất cao.
2. Pháp tánh trưởng lão: Tức là người hiểu rõ ràng Phật pháp. "Tánh" là tự tánh. Vị này hiểu rõ Phật pháp và thông đạt tự tánh, cho nên bất luận là tuổi tác vị ấy lớn hay nhỏ mà có trí huệ vô lượng, biện tài vô ngại, thì đều được gọi là Pháp tánh trưởng lão. Có khả năng như trên, dù là tuổi tác còn nhỏ cũng được gọi là trưởng lão, để giảng giải Phật pháp. Như Xá-lợi-phất lúc còn tám tuổi mà đã chiến thắng các Luận sư đương thời ở „n Độ. Trong bảy ngày, Ngài có thể thông suốt được Phật pháp, cho nên gọi là Trưởng lão.
3. Phước đức trưởng lão: Vị này có rất nhiều phước đức, nên ai ai cũng thích cúng dường vị ấy. Nhơn vì vị ấy tiếp nhận sự cúng dường của người nào cũng có thể khiến người ấy gieo trồng phước lành, cho nên nhơn đó mà có được đức hạnh.
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều là trưởng lão. Xá-lợi-phất là tiếng Phạn, cha Ngài tên là Đề-xá, Lợi là tên của mẹ Ngài, Phất nghĩa là con, cho nên có một số kinh dịch là Xá-lợi-tử hoặc là Ưu-ba-đề-xá. Gộp tên cha mẹ lại làm tên của Ngài, cho nên gọi là Xá-lợi-phất, có nhiều cách phiên dịch. Có người dịch là Thân Tử, hoặc Thu Tử, hoặc Châu Tử.
Ngài Xá-lợi-phất là người trí huệ bậc nhất trong hàng Thanh văn, trí huệ của Ngài không ai sánh kịp. Đương lúc Ngài ở trong thai mẹ đã giúp mẹ biện luận luôn luôn được thắng. Bà biện luận với ai? Chính là với cậu của Ngài là Ma ha Câu-hy-la. Trước kia, khi chưa mang thai ngài Xá-lợi-phất, mẹ Ngài cùng em bà biện luận, càng biện luận càng thua. Nhưng từ khi mang thai Ngài, bà biện luận với em không giống như trước, những lý lẽ đưa ra hoàn toàn vững chắc. Em của bà tức cậu của Ngài Xá-lợi-phất cũng rất thông minh, biết rằng đây không phải là chị biện luận hơn mình, mà là do sự giúp sức của đứa trẻ bà mang trong bụng. Lúc đó ông bèn phát tâm đi về Nam „n Độ học môn Luận lý. Cứ học, học mãi, trong nhiều năm, ngày xưa không có đèn điện, nhưng ông ta suốt ngày từ sáng đến tối đều siêng năng học tập: Bốn bộ Vệ-đà, bốn thuyết Luận học, thậm chí không có bỏ qua một giây phút nào. Học như vậy đến mấy năm, y phục rách cũng không kịp vá, mặt cũng không rửa, móng tay cũng không có thì giờ cắt, cho nên móng tay cứ mọc dài ra mãi, vì thế người ta gọi ông là Trưởng Trảo Phạm chí. Ông định học xong tất cả những luận học sẽ trở về biện luận cùng cháu mình. Vì ông là một vị Đại Luận sư, mới nghĩ rằng: "Nếu không thắng được đứa cháu mình thì còn mặt mũi nào nhìn ai nữa." Không dè sau khi học thành tài trở về lại phát hiện Xá-lợi-phất đã theo Phật xuất gia rồi. Ông cảm thấy không vui, cho việc học của mình là vô ích, và nói: "Phật có đạo đức gì? Chẳng qua chỉ là một ông Sa-môn. Ta phải đi tìm đứa cháu bắt về mới được." Ông ta bèn đi đến chỗ Phật định bắt cháu ông về. Phật nói: "Ông dựa vào lý do gì mà bắt cháu về? Tông chỉ của ông như thế nào?"
Ông ta đáp: Tôi lấy "Không thọ" làm tông chỉ.
Phật nói: Phải, ông lấy "Không thọ" làm tông chỉ tại sao ông còn thọ cái kiến chấp "không thọ" của ông? Tông chỉ của ông phải chăng là thọ cái không thọ?
Từ trước đến giờ, ông cho tất cả đều không thọ, bây giờ Phật hỏi ông: Phải chăng là thọ cái chấp "không thọ"? Ông tự xét: Nếu nói là thọ, thì cái lý "lấy không thọ làm tông" đã bị đổ nhào, không còn đứng vững nữa, vì là có thọ rồi. Nếu nói là không thọ, thì cả đến kiến chấp cũng không thọ nữa. Nhưng khi lập tông này thì đã là có kiến chấp rồi, làm sao nói là không thọ kiến chấp ấy ư? Cho nên trả lời "thọ" cùng "không thọ" đều không đứng vững. Lúc đó ông tự nhận thua rồi.
Trước khi biện luận, ông giao kết với Phật: "Nếu tôi thắng thì tôi mang Xá-lợi-phất về, không cho nó theo ông xuất gia. Còn nếu thua thì tôi sẽ cắt đầu dâng cho ông."
Ông ta đem đầu đánh cuộc, khi thấy mình bại rồi ông ta liền co giò chạy một mạch. Chạy được ba bốn dặm, ông lại nghĩ: "Chà, bậy bạ quá! Đã nói chắc rồi, hễ thua thì nộp đầu mà bây giờ lại chạy đi, đâu phải là hành động của đại trượng phu nam nhi hảo hán!" Ông bèn trở lại, xin với Phật Thích Ca cho mượn dao. Phật hỏi: "Ông mượn dao để làm gì?" Ông nói: "Tôi thua rồi, tôi phải cắt đầu nộp cho ông." Phật nói: "Giáo pháp ta không có cách làm như vậy. Ông đã thua rồi thì không được đi, phải ở đây xuất gia mới đúng." Ông hỏi: "Đức Thế Tôn chịu nhận tôi sao?" Phật gật đầu. Như vậy chẳng những cháu không bắt về được, mà người đòi bắt về cũng xuất gia làm Tỳ-kheo nốt. Sau khi xuất gia, không bao lâu ông được Pháp nhãn tịnh, chứng Thánh quả.
Xá-lợi-phất ở trong thai mẹ đã có đại trí huệ giúp mẹ biện luận thắng cậu của ông. Lại nữa, Xá-lợi-phất trong bảy ngày liền thông đạt Thật tướng các pháp, lúc tám tuổi đã biện luận thắng tất cả luận sư, cho nên gọi là Đại trí Xá-lợi-phất. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ai hỏi mà tự nói ra Kinh A Di Đà, đương thời lấy ngài Xá-lợi-phất làm Thượng thủ, vì có trí huệ như ngài Xá-lợi-phất mới có thể tiếp nhận đạo lý thâm diệu của pháp môn Tịnh độ.
Ngài Xá-lợi-phất chẳng những là trí huệ bậc nhất mà thần thông của Ngài cũng thuộc vào hàng bậc nhất nữa. Một hôm có vị cư sĩ thiết trai thỉnh Phật cúng dường. Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất đang nhập định, người ta gọi Ngài mà Ngài không xuất định. Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên, vị thần thông bậc nhất, muốn dùng thần lực của mình để gọi ngài Xá-lợi-phất xuất định, nhưng sử dụng tận lực thần thông mà cả đến chéo áo của Ngài Xá-lợi-phất cũng không lay động. Điều này chứng tỏ rằng Ngài Xá-lợi-phất chẳng những là trí huệ đệ nhất mà thần thông cũng là bậc nhất.
Tại sao ngài Xá-lợi-phất có trí huệ bậc nhất? Tại sao gọi Ngài là Đại trí Xá-lợi-phất? Việc này phải xét theo nhơn quả. Khi Ngài còn tu nhơn, lúc mới phát tâm học Phật, gặp một vị Thầy, vị này hỏi: "Con muốn có trí huệ không?" Xá-lợi-phất đáp: "Con rất muốn." Lúc ấy vị Thầy mới bảo ông: "Nếu muốn được trí huệ thì phải học pháp môn Bát nhã trí huệ, trì chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, Thập chú, Tâm Kinh... Mỗi ngày trì tụng các chú ấy thời có thể mở được trí huệ." Xá-lợi-phất bèn tuân theo, mỗi ngày từ sáng tới tối, đi đứng nằm ngồi đều để tâm ở việc trì tụng, không có gián đoạn, thậm chí còn phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn kính lễ vị Thầy đã dạy pháp Bát-nhã. Như vậy, đời nào ông cũng học tập pháp môn Bát-nhã, đời nào cũng tăng thêm trí huệ. Đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, ông mới thành tựu được trí huệ như thế, có thể trong bảy ngày thông suốt Thật tướng các pháp.
Ai là Thầy của ông ở thời tu nhơn? Chính là Phật Thích Ca Mâu Ni đấy. Cho nên khi Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật rồi, ông cũng thành bậc đại A-la-hán. Đó là nhơn duyên mà ngài Xá-lợi-phất thành tựu đại trí huê. Chủ yếu là vì lúc nào ông cũng không quên lời dạy bảo của bậc thiện tri thức, cho nên nội trong bảy ngày mà thông suốt các pháp như vậy.
Chúng ta tại sao học kinh chú rất chậm, thậm chí mấy tháng trời mà chú Lăng Nghiêm không thuộc? Đó là vì đời trước chúng ta chưa học qua thứ Phật pháp ấy, đến bây giờ mới bắt đầu học. Điều cần nhất là học Phật pháp không nên lười biếng, cần phải bắt chước sự siêng năng vượt bực của ngài Xá-lợi-phất, ngày đêm không lười biếng để học Phật pháp. Cho nên người bây giờ nhớ không được kinh chú, cần phải cố sức lên, đó gọi là "Cần năng bổ chuyết? (Siêng năng bù đắp chỗ vụng về). Nếu nhớ được rõ ràng, cũng càng phải nỗ lực gấp bội để tăng thêm trí huệ của chính mình.
Tại sao trí huệ của ta kém hơn người khác? Tại vì chúng ta chưa học Phật pháp. Cho nên phải phát nguyện học tập Phật pháp thì tương lai chúng ta sẽ được đại trí như ngài Xá-lợi-phất. Ngoài ra chúng ta còn phải học theo đại trí của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì trí huệ của Ngài còn thâm diệu hơn ngài Xá-lợi-phất nhiều.
Ma-ha Mục-kiền liên. Ma-ha là tiếng phạn có ba nghĩa:
1. Lớn: Vì Ngài là bực Trưởng lão được quốc vương, đại thần cung kính.
2. Nhiều: Ngài học tập cả ba tạng mười hai bộ kinh điển.
3. Hơn hết: Ngài vượt hơn tất cả các ngoại đạo khác.
Mục-kiền liên là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Thái Thúc Thị, hoặc Lai Phục Căn, nhơn vì tổ tiên ngài khi tu hành ăn thứ rau này cho nên lấy đó đặt tên. Tên của ngài còn có một nghĩa là Câu-luật-đà, nhơn vì cha mẹ ngài cầu đảo với thần cây mà sinh ra ngài.
Tôn giả Mục-kiền-liên là bậc thần thông bậc nhất, khi ngài mới chứng A-la-hán liền được sáu thứ thông. Sáu thứ thần thông là:
1. Thiên nhãn thông: Chẳng những có thể thấy được tất cả tình hình ở nhơn gian mà lại còn có thể thấy được nhứt cử nhứt động của các người ở trên cõi trời.
2. Thiên nhĩ thông: Chẳng những thấy được mà còn có thể nghe được mọi lời nói, mọi hành động của người và trời.
3. Tha tâm thông: Khi hai bên gặp nhau, trong tâm bạn có ý nghĩ gì, dù chưa nói ra miệng nhưng đối phương đã biết rõ những điều bạn nghĩ và những việc bạn định làm.
4. Túc mạng thông: Chẳng những biết được ý nghĩ của bạn trong hiện tại, mà cả đến nhơn quả đời trước của bạn cũng biết được rõ ràng.
5. Thần túc thông: Cũng gọi là Thần cảnh thông hay Như ý thông. Sao gọi là Thần túc thông? -Đó là một sức mạnh không thể nghĩ lường, có thiên biến vạn hóa, ngay đến quỷ thần cũng không lường biết. Lại gọi là Thần cảnh thông, vì có thể đến mọi cảnh giới, thông suốt không bị ngăn ngại, và Như ý thông: Được toại lòng mong muốn, muốn lên trời hoặc xuống địa ngục đều được tùy ý; thậm chí vào lửa, lửa không đốt được; vào nước, nước không nhận chìm; có thể mặc ý xuyên qua vách tường, không cần phải theo lối cửa; toại lòng như ý, muốn gì được nấy.
6. Lậu tận thông: Đã sạch cả hữu lậu. Hàng phàm phu đều có Hữu lậu, như cái bình pha lê bị rạn nứt không đựng nước được, hễ đổ nước vào liền chảy hết; nứt càng lớn thì nước chảy càng mau. Nếu không nứt thì nước sẽ không lậu (rỉ) chảy ra.
Người ta có hữu lậu là thế nào? Người ta uống nước, ăn cơm, khi biến thành đại tiểu tiện thì sẽ rịn chảy ra. Người ưa nổi cáu, có tâm tham, sân, si, mạn, nghi... đó đều là lậu. Có lậu tức là không giữ được. Lậu tận thông tức là lậu ấy không còn có nữa. Lậu là những lỗi lầm, tập khí. Người ta không có lỗi lớn thì có lỗi nhỏ, không có lỗi nhỏ thì có lỗi vặt; khi không có lậu lớn thì có lậu nhỏ; khi không có lậu nhỏ lại có những tập khí vi tế. Về chữ Lậu thì giảng mãi cũng không cùng.
Tôn giả Mục-kiền-liên sau khi được sáu thần thông, ngài liền dùng Thiên nhãn thông xem khắp thế giới, tìm kiếm cha mẹ mình, nhưng trước hết chú ý tìm mẹ của ngài thì thấy bà ở trong địa ngục. Tại sao bà mẹ của ngài lại ở trong địa ngục? Tại vì bà ta lúc sanh thời không tin Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, chẳng những không tin mà còn hủy báng Tam Bảo, rồi còn sát sanh, ưa ăn trứng cá. Vì sát sanh quá nhiều nên phải bị đọa vào địa ngục. Tôn giả Mục-kiền-liên bấy giờ mới đem bát cơm cho mẹ ăn. Bà mẹ ngài vội vàng một tay cầm bát (vì lòng tham của bà quá nặng, sợ bọn ngạ quỷ kia đến cướp cơm của bà. Ngạ quỷ là loài tâm tham quá nặng), len lén bốc ăn. Nhưng vì nghiệp chướng bà quá nặng, trước khi cơm vào miệng đã cháy thành than, không thể ăn được mà còn làm phỏng miệng bà. Tôn giả Mục-kiền-liên dù có thần thông cũng không cách nào làm cho cơm không trở thành than được, vì thế ngài tức tốc về cầu cứu với Phật.
Đức Phật liền dạy cho ngài một phương pháp cứu giúp mẫu thân, tức là thiết lễ cúng Vu lan bồn. Vu lan bồn là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Giải đảo huyền, nghĩa là giải cứu người bị treo ngược, tức là giải thoát cho những người biến thành ngạ quỷ bị khổ giống như bị treo ngược trong địa ngục. Phật dạy Ngài vào ngày rằm tháng bảy, sau khi chư Tăng làm lễ Tự tứ, hãy dùng thức ăn đủ cả trăm vị để cúng dường mười phương tăng, thì mới có thể cứu mẹ ngài thoát khổ được. Tôn giả Mục-kiền-liên y theo cách đó mà thi hành, quả nhiên siêu độ được mẹ ngài sanh lên cõi trời; chẳng những mẹ ngài mà tất cả những ngạ quỷ trong địa ngục ngày đó đều được siêu độ vãng sanh cực lạc.
Có người nói: "Tôi không tin thức ăn sẽ hóa thành than lửa khi đưa đến cho ngạ quỷ ăn." Điều đó làm cho bạn không tin cũng phải, trước khi tôi cũng không tin như vậy. Nhưng mà trong vũ trụ có biết bao nhiêu việc rất lạ lùng, nói một vài lời cũng khó hết được, huống chi là những việc ngoài vũ trụ ư? Ví như nước trong, loài người và súc vật thấy là nước, nhưng thiên nhơn thấy là lưu ly, ngạ quỷ thấy là lửa. Những cái thấy đó đều là do nghiệp báo hiện ra. Trời, người ngạ quỷ... mỗi loại đều có nghiệp báo riêng, do nghiệp lực hiện ra mà thấy như vậy. Trên đây chính là nhơn duyên mà Tôn giả Mục-kiền-liên cầu Phật để cứu mẹ.
Ma-ha-Ca-Diếp, Ma-ha-Ca-chiên-diên, Ma-ha-Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề.
Ma-ha-Ca-Diếp. Ma-ha có ba nghĩa: Lớn, nhiều và hơn hết, cho nên Ma-ha Ca Diếp tức là Đại Ca Diếp. Ca Diếp là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Quy Thị. Đại Quy Thị là họ của ngài, nhơn vì tổ tiên của ngài nhìn thấy một con rùa lớn cõng trên lưng một cái bản đồ, rồi theo đó mà tu hành, nên lấy đó làm họ của mình. Ca Diếp còn dịch là ẩm Quang Thị, vì trên thân của ngài có ánh sáng, có thể lấn át các ánh sáng của người, giống như là "uống hết" (ẩm) tất cả ánh sáng vậy.
Tại sao ngài lại có được ánh sáng như thế? Vào thời bảy Đức Phật quá khứ, thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, có một ngôi chùa hư nát; tượng Phật không có gì che mưa gió. Lúc ấy có một cô gái nghèo phát tâm muốn thếp vàng tượng Phật và sửa lại ngôi chùa. Mỗi ngày cô đi hóa duyên khắp nơi, đến khi đủ tiền, rồi mời một người thợ bạc đến để thếp vàng sửa lại kim thân tượng Phật.
Công việc xong, người thợ bạc sanh ra một thứ tình cảm yêu mến cô gái ấy, nên mới nói với cô gái rằng: "Cô sửa chùa công đức rất lớn. Nhưng công đức đó có thể tính cho hai người được không? Cô ra vàng, tôi ra công, không tính với cô tiền công." Lúc đó hai người cùng nhau sửa sang tượng Phật và ngôi chùa được hoàn hảo. Xong việc, người thợ bạc xin cầu hôn với cô gái nghèo ấy. Hai người bèn kết nghĩa vợ chồng. Vì nhơn duyên thếp vàng tượng Phật nên về sau đời đời kiếp kiếp trên thân hai người đều phóng ra ánh sáng màu vàng ánh. Trong chín mươi mốt kiếp, hai người sanh ra đều làm vợ chồng. Đời này sanh tại nước Ma-kiệt-đà, vào họ Ca-Diếp, khi ngài được hai mươi tuổi cha mẹ muốn cưới vợ cho, ngài nói: "Nhứt định phải tìm cho được cô gái mà trên thân có ánh sáng sắc vàng, tôi mới chịu kết hôn." Về sau, quả nhiên ở một nước kia có cô gái trên thân cũng có ánh sáng sắc vàng như ngài. Đó là do tiền nhơn hậu quả gây tạo nghiệp lành mà chiêu cảm ra, cho nên đời đời kiếp kiếp họ đều có ánh sáng sắc vàng. Hai vợ chồng họ đời nào cũng đều là người tu hành, cùng nhau nghiên cứu phương pháp tu tập. Thời đó, ngài Ca Diếp xuất gia làm Tỳ-kheo, cô vợ cũng xuất gia làm Tỳ-kheo ni, tên là Kim Quang Minh Tỳ-kheo ni. Ngài Đại Ca-Diếp tên là Tỳ-bát-la, đây cũng là tên cây, do vì cha mẹ ngài cầu đảo với thần cây mà sanh ra ngài nên lấy tên cây mà đặt tên con.
Tôn giả Ma-ha Ca Diếp là người có địa vị rất quan trọng trong Phật giáo. Chư Phật thuyết pháp, các vị Đại Phạm thiên cùng tụ hội và dâng hoa sen bằng vàng lên cúng Phật. Có một hôm, Phật cầm hoa sen vàng đưa ra trước đại chúng, bấy giờ, trong pháp hội có hàng trăm vạn trời, người, không ai biểu lộ thái độ gì, chỉ có Tôn giả Ma-ha Ca Diếp mỉm cười. Lúc đó Phật nói: "Ta có Chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, pháp môn tâm ấn, thật tướng vô tướng, đã truyền cho Ca Diếp." Vì thế ngài Ca Diếp là Tổ đời thứ nhất của Phật giáo ở Thiên Trúc. Tôn giả hiện giờ vẫn còn sống ở thế giới này. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả Ma-ha Ca Diếp bèn đến núi Kê Túc ở Vân Nam nhập định, đợi lúc Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật ra đời thành Phật, ngài mới đem cà-sa viền vàng giao cho Đức Phật Di Lặc, chừng đó ngài mới hoàn tất những việc cần làm.
Khi Tôn giả Ca Diếp quy y Phật xuất gia làm Tỳ-kheo thì đã một trăm sáu mươi tuổi, qua bốn mươi chín năm Phật thuyết pháp, hơn ba trăm hội giảng kinh, Tôn giả đã hơn hai trăm tuổi. Từ khi Phật nhập diệt đến nay đã hơn ba ngàn năm, có rất nhiều người tu hành đến núi Kê Túc để triều bái Tổ sư Ca Diếp. Núi Kê Túc thường có ba thứ ánh sáng: ánh sáng Phật, ánh sáng vàng, ánh sáng bạc. Khi đến núi Kê Túc lễ lạy, nếu người có lòng chí thành thì có thể nghe được tiếng chuông vang ra từ trong núi, chỉ nghe tiếng chuông chứ không thấy chuông, cách núi Kê Túc mấy trăm dặm đều có thể nghe được. Đó thật là cảnh giới bất khả tư nghì!
Tôn giả Ca Diếp là người được hai cái bậc nhất trong số đệ tử Phật. 1) Đầu-đà bậc nhất, 2) Tuổi cao bậc nhất. Trong các đệ tử của Phật, luận về tuổi tác thì không có ai hơn ngài. Trong hàng đệ tử của Phật, ngài ăn rất kham khổ, thọ dụng rất kham khổ, tu hành cũng rất kham khổ, cho nên được tôn là hạnh Đầu-đà bậc nhất.
Đầu-đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đẩu Tẩu tức là phấn chấn tinh thần, mạnh mẽ tinh tấn. Đầu-đà tức là thực hành khổ hạnh, có mười hai thứ khổ hạnh, mười hai hạnh Đầu-đà này là biểu hiện sự trụ trì Phật pháp. Chỉ cần có người tu hạnh Đầu-đà thì Phật pháp còn trụ lâu ở thế gian; nếu không có người tu hạnh Đầu-đà thì Phật pháp bị diệt mất. Mười hai hạnh Đầu-đà là:
1. Mặc y phấn tảo: Y phấn tảo là gì? Tức là loại y phục hoặc vải mà người ta đã dùng rồi không cần nữa, vứt bỏ đi thì người xuất gia đem những thứ y phục đó về giặt sạch may thành y phục của mình. Mặc những thứ y phục này có những lợi ích gì? Có lợi ích rất lớn là khiến cho mình không còn tâm tham, không thích y phục đẹp, mặc thứ y phục này khiến cho trong lòng rất an tịnh, bớt đi lòng tham, cũng khiến cho người khác không có tâm tham. Nếu mình mặc bộ y phục quá đẹp, người khác có thể sanh ra một thứ lòng hâm mộ, từ hâm mộ sanh ra ganh ghét, từ ganh ghét sanh ra tâm tham, kế đó sanh ra tâm trộm cắp. Nếu mặc y phấn tảo thì không có ai muốn đến lấy trộm, đó là có lợi cho mình mà cũng có lợi cho người khác; cũng là những y phục Phá nạp mà người xuất gia hay mặc. Vì thế người xuất gia cũng gọi là "Nạp tử", có nghĩa là nói người xuất gia mặc y Phá nạp.
2. Chỉ có ba y, bình bát, tọa cụ: Tức là những đồ vật mà người xuất gia được có. Ba y là:
- Đại y: Có loại hai mươi lăm điều, một trăm lẻ tám miếng. Thứ y này đắp mặc khi giảng kinh thuyết pháp hay khi vào Hoàng cung.
- Thất điều y: Là y bảy điều, đắp mặc khi lễ sám lạy Phật.
- Ngũ y: Là y năm điều, đắp mặc khi chấp lao phục dịch, đi ra vào, đón rước tiếp đãi khách khứa.
Tại sao chỉ có ba y, bình bát và tọa cụ? Đó cũng là khuyên bảo phải tri túc, chớ tham nhiều vật chất. Dưới đây là nói về vật thực, có năm mục:
3. Thường khất thực: Thường ôm bát đi khất thực, tự mình không nấu nướng.
4. Theo thứ lớp khất thực: Tức là ngừng ở mỗi nhà khất thực, không nói là bỏ nhà người nghèo khổ mà đến nhà người giàu có để khất thực. Nếu ngừng lại ở từng nhà thì một ngày hóa duyên trước cửa bảy nhà. Nếu bảy nhà đều không cúng dường thì ngày hôm đó không ăn. Không thể lựa chọn mà phải bình đẳng khất thực. Không giống như Tôn giả Tu-Bồ-đề và Đại Ca Diếp có tâm phân biệt. Tôn giả Đại Ca Diếp chuyên đến nhà người nghèo để khất thực, vì ngài nghĩ rằng người nghèo thật đáng thương, nếu không gieo trồng phước lành cho họ thì đời sau lại càng khổ hơn, vì thế ngài cứ đến hóa duyên người nghèo. Trái lại, Tôn giả Tu-Bồ-đề lại chuyên hóa duyên người có tiền mà không hóa duyên người nghèo khổ. Ngài cho rằng: "Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng phước lành thì đời sau lại nghèo khổ." Mỗi vị đều trình bày lý do của mình, Đức Phật mới quở trách các vị ấy là bậc A-la-hán có tâm phân biệt không bình đẳng.
5. Giữa ngày ăn một bữa: Sáng sớm và chiều tối không ăn chi hết, chỉ đúng trưa (từ 11-12 giờ) mới ăn. Có người không hiểu Phật pháp, cho rằng giữa ngày ăn một bữa chính là Trì ngọ. Trì ngọ là buổi sáng ăn, buổi chiều không ăn. Nếu sáng, chiều và trưa đều ăn thì gọi là "Năng cật." Giữa ngày ăn một bữa, là tu hành theo chế độ của Phật dạy, nhơn vì giữa ngọ là thời gian Phật ứng cúng. Sáng sớm là chư Thiên ăn, quá Ngọ là súc sanh ăn, chiều tối là ngạ quỷ ăn. Tại sao người xuất gia không ăn chiều? Vì ăn chiều khua đũa bát, ngạ quỷ có thể đến cướp lấy thức ăn, nhưng mà thức ăn một khi vào miệng liền biến thành lửa đỏ, nhơn đó mà sanh lòng sân hận, rồi làm cho người xuất gia sanh bịnh. Thế nên người xuất gia không ăn chiều.
6. Ăn ít một chút: Tức là không ăn quá nhiều, nếu ăn quá nhiều, bụng không có chỗ chứa thức ăn cho nên phải bận rộn rất nhiều cho việc tiêu hóa.
7. Quá ngọ không uống nước cô đặc: Nước cô đặc là nước ép từ trái cây, sữa bò, sữa đậu nành. Quá giờ Ngọ, người tu hạnh Đầu-đà chơn chính thì không uống những thứ nước cô đặc ấỵ
Có người chỉ tu một thứ hạnh Đầu-đà, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn thứ, hoặc tu trọn vẹn các hạh Đầu-đà, đều là tuỳ theo sức mình mà thực hành. Năm mục ở trên là về ăn uống, còn năm mục sau đây là về mặc ở. Người tu hành cũng không tránh khỏi các vấn đề ăn mặc, ở, đi; cho nên có mười hai thứ hạnh Đầu-đà.
8. — noi A-lan-nhã: A-lan-nhã dịch là Tịch tịnh xứ, tức là chỗ rất ít bóng người, không có thứ tiếng tạp loạn, đó là nơi mắt không thấy thì miệng không ham, tai không nghe thì tâm không phiền. Giống như người thấy đồ ăn ngon thì sanh ra lòng muốn ăn. Tai không nghe nhiều tiếng ồn ào thì trong lòng không sanh phiền não, còn ở chỗ vắng lặng thì dễ dụng công tu hành, dễ ngộ đạo.
9. — dưới bóng cây: Người tu hành ở dưới bóng cây, nhưng không quá ba đêm. — qua hai đêm thì phải dời chỗ. Tại sao thế? Vì nếu ở đó ba đêm thì sẽ có người đến cúng dường. Vì người tu hạnh Đầu-đà không mong cầu phan duyên, không mong cầu được cúng dường thức ăn ngon.
10. — lộ thiên: Tức là ở khoảng đất trống.
11. — gò mả: Tức là ở bên gò mả khiến cho tự mình có một thứ cảm giác để đối trị với tánh buông lung: "Này, ở đó có người chết, nếu không tu hành về sau ta cũng giống như thế, ta phải gấp rút tu hành mới được." — bên gò mả thì không thể nào lười biếng được.
12. Lưng không dính chiếu: Tức là thường ngồi không nằm, không có nằm khi ngủ nghỉ, như thế mới có thể dụng công mà không lười nhác.
Tôn giả Ca Diếp chẳng phải chỉ tu một thứ hạnh Đầu-đà, mà cả mười hai hạnh Đầu-đà đều tu trọn vẹn. Đến khi ngài hơn hai trăm tuổi, Phật thấy ngài tu hạnh Đầu-đà, không nhẫn tâm để ngài khổ cực quá, có một hôm Tôn giả Ca Diếp đến ra mắt Phật, Phật chia nửa tòa cho Tôn giả Ca Diếp cùng ngồi rồi nói với ngài rằng: "Ông nay tuổi đã quá già rồi, nên nghỉ bớt đi, chớ nên theo hạnh Đầu-đà cực khổ như thế nữa." Tôn giả Ca Diếp nghe Phật dạy, chỉ cười mà không đáp. Nhưng khi ngài trở về vẫn tu hạnh Đầu-đà, không cho rằng mình tuổi tác đã cao mà ngưng tu hạnh Đầu-đà. Đức Phật biết việc ấy nên vui vẻ nói: "Trong Phật pháp của ta, hạnh Đầu-đà của Ca Diếp có thể làm cho Phật pháp trụ thế năm trăm năm nữa." Cho nên ngài Ca Diếp được khen là hạnh Đầu-đà bậc nhất.
Mười hai hạnh Đầu-đà là việc tu hành của người xuất gia, có một số người tại gia nói: "Mười hai hạnh Đầu-đà là để cho người xuất gia tu, chứ nói với người tại gia chúng tôi để làm gì?"
Câu nói này mới nghe dường như rất đúng, nhưng xét kỹ lại một chút thật là quá mê si! Tại sao biết được mình trước kia không phải là người tu hành, chưa từng tu hạnh Đầu-đà? Có thể là các vị quên mất đấy, nên bây giờ tôi xin nhắc lại.
Xem thêm: https://quangcaodep.com/chon-mua-hang.html
Xem thêm: Đời sống
Đăng bởi Võ Thiện By Tags: Kinh, Kinh A Di Đà, Luận, Luật, Ma-ha Ca Diếp, Ngài A Nan, Niết-bàn, Tôn giả, Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, Đại Ca Diếp, Đầu-đà