Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn, từ nơi tướng bạch hào giữa đôi mi, phóng ra ánh sáng vàng rực rỡ soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương.

Phan Chanh Tong

Hào quang ấy trở lại trụ trên đảnh của Phật, hóa thành đài vàng như núi Tu di. Những cõi nước trong sạch nhiệm mầu của chư Phật mười phương đều hiện rõ nơi toà quang minh đó. Trong vô số quốc độ ảnh hiện ấy, có cõi do bảy báu hợp thành, có cõi thuần là hoa sen, có cõi tráng lệ như cung trời Đại tự tại, có cõi sáng suốt như gương pha lê.

Vô lượng tịnh độ hiện bóng nơi đài quang minh, mỗi miền một vẽ rất rõ ràng, cực nghiêm đẹp. Sau khi dùng thần thông hiển thị các cõi trang nghiêm xong, Đức Thế Tôn bảo bà Vi Đề Hy nên tùy ý mình lựa quốc độ nào mà tâm mình ưa thích.

"Bạch Hào" là tướng lông trắng giữa đôi mày của đức Phật, Hào tướng này trắng ngần như tuyết, dài một trượng năm thước ( thước tấc Trung Hoa ), có tám góc, rỗng như pha lê, xoay quanh qua bên hữu thành hình tròn như nửa hạt châu úp xuống, bề chu vi năm tấc. Đây cũng gọi là Đại nhân tướng, Ánh sáng do nơi bạch hào phóng ra là tiêu biểu cho từ trung đạo lưu xuất các pháp. Đức Thế Tôn phóng bạch hào quang soi các cõi mười phương, rồi dùng ánh sáng ấy thu nhiếp hình bóng vô số quốc độ đem vê trụ trên đảnh; tướng trước tan sau tụ này tiêu biểu cho ý nghĩa "nhiếp nhiều về một", cũng để hiện rõ bản kinh thuộc pháp viên đốn nhứt thừa. Tu Di (Sumeru), Trung Hoa dịch là Diệu Cao sơn, núi này trên dưới rộng ra, khoảng giửa eo lại. Ánh sáng tụ về hóa thành đài vàng giống như hình núi Tu Di, bao nhiêu tịnh quốc đều hiện trong đó, bà Vi Đề Hy được thấy rõ ràng tất cả, là do thần lực của Phật gia bị.

Cõi do bảy báu hợp thành, chỉ cho sự tôn quý. Cõi thuần là hoa sen chỉ cho sự trong sạch. cõi như cung trời Đại Tự Tại, chỉ cho sự vui vẻ. Cõi như gương pha lê, chỉ cho sự sáng ngần. Đây là duy kể phần đại lược. Bà Vi Đề Hy thỉnh cầu chỉ miền an lạc, đức Phật không dùng ngôn thuyết giảng giải rộng ra, duy phóng ánh sáng chỉ bày các cõi trang nghiêm, đó là hiển rõ phần ý mật của Như Lai. Bởi dù đức Thế Tôn có nói nhiều mà Vi Đề Hy không thấy, tất chưa khỏi lòng còn nghi hoặc, nên Phật mới hiển thị các Tịnh Độ cho bà sinh lòng tin tưởng ưa thích và tùy ý lựa chọn.

Bà Vi Đề Hy phu nhơn quan sát kỹ các Phật quốc rồi thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn ! Các tịnh độ ấy tuy đều nghiêm sạch và có ánh quang minh, nhưng nay con chỉ thích được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Mi Đà. Cúi xin đức Thế Tôn dạy con phép tư duy và chánh thọ".

Bà Vi Đề Hy lựa cõi Cực Lạc trong vô số tịnh độ, bởi có ba lý do:

1- Vì nhơn duyên của bà thích hợp với cõi Cực Lạc.

2- Vì do nguyện lực thù thắng của Phật A Mi Đà chiêu cảm.

3- Vì phải lựa chọn một cõi để tu quán, tâm niệm mới dễ được quy nhất.

Trên quán hạnh, bước phương tiện đầu tiên tác ý duyên cảnh gọi là "tư duy". Khi phép quán tưởng đã thành, tâm được tự tại khế hợp với chân cảnh gọi là "chánh thọ". Chẳng hạn như trong môn địa quán có nói: " Quán tưởng như thế gọi là thấy đất ở cõi Cực Lạc về phần thô". Đây chính là "tư duy". Và nếu được tam muội thấy đất ở An Dưỡng quốc rõ ràng mầu nhiệm, không thể dùng lời nói diễn tả cho hết, gọi là "chánh thọ".

Khi ấy đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ nơi miệng tuôn ra năm sắc quang minh, mỗi tia sáng đều chiếu đến đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La. Lúc đó Tần Bà Sa La vương tuy bị giam cầm song tâm nhãn không chướng ngại từ nơi xa trông thấy đức Thế Tôn liền cúi đầu đảnh lễ, đạo căn tự nhiên tăng tiến, chứng được quả A Na Hàm.

Vi Đề Hy phu nhơn phát lời hỏi trên đã xứng với bản tâm của Phật, lại hợp với đại nguyện của đức A Mi Đà. Với lời hỏi ấy, chẳng những riêng bà thọ phần pháp ích, mà chúng sanh đời sau cũng do đó được hưởng nhiều lợi lạc, nên đức Như Lai mới mỉm cười. Kinh Quán Phật Tướng Hải nói : "Pháp thường của chư Phật, khi cười tất có ánh sáng năm sắc từ nơi miệng chiếu ra". Nhưng khi Phật từ nơi thân phóng ra ánh sáng, tùy theo mỗi chỗ đều có ý nghĩa và sự lợi ích riêng. Như ánh sáng từ nơi chân Phật phóng ra, là chiếu ích chúng sanh ở địa ngục, từ nơi đầu gối phóng ra, chiếu ích cho chúng bàng sanh. Từ nơi âm tàng phóng ra, chiếu ích cho chúng quỷ thần. Từ nơi rún phóng ra, chiếu ích cho chúng A Tu La. Từ nơi ngực phóng ra, chiếu ích cho loài người. Từ nơi miệng phóng ra, chiếu ích cho hàng Nhị thừa. Từ giửa đôi mày phóng ra, chiếu ích cho bậc căn tánh đại thừa. Nay ánh sáng này từ nơi kim khẩu phóng ra, chiếu ngay đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La, tức tiêu biểu Phật thọ ký cho vua chứng được tiểu quả. Nếu ánh sáng từ nơi bạch hào phóng ra rồi trở vào đảnh Phật, là đức thế tôn thọ ký cho đương nhơn quả vị Bồ Tát.

A Na Hàm, Trung Hoa dịch là Bất Hoàn. Đây là quả thứ ba của hàng Thanh Văn, người chứng quả này hoặc nghiệp sắp hết, khi xả thân sanh ngay lên cung trời Tịnh Cư, không còn trở xuống hạ giới nữa. Đức Phật phóng quang gia bị Tần Bà Sa La vương khiến cho đức vua đạo nhãn mở mang, chứng được thánh quả xem cái chết như giấc ngủ không còn lo lắng sợ hãi nữaa. Vi Đề Hy phu nhơn cũng nhân ánh sáng đó, thấy vua được lợi lạc, nên không còn buồn rầu, yên tâm học đạo. Vua Tần Bà Sa La thấy Phật, đắc quả, lẽ ra cùng với phu nhơn đồng nghe quán pháp, nhưng trong phần kết ích chỉ nói đến bà Vi Đề Hy cùng năm trăm thị nữ, cứ theo đó thì biết sau khi chứng đạo vua liền xả thân qui tịch.

Bấy Giờ, đức Thế Tôn bảo Vi Đề Hy: "Ngươi có biết chăng? Phật A Mi Đà cách đây không xa, ngươi nên hệ niệm và quán sát kỹ cõi nước kia, tất tịnh nghiệp sẽ được thành tựu. Nay ta vì ngươi nói rộng các thí dụ, cũng khiến cho đời vị lai, tất cả phàm phu muốn tu tịnh nghiệp, được sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây".

Muốn sanh về cõi ấy, phải tu ba thứ phước: 1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành. 2. Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, đừng phạm oai nghi. 3. Phát lòng bồ đề tin sâu lý nhân qủa, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành. Ba điều như thế, gọi là tịnh nghiệp.

Câu "Cõi Phật A Mi Đà cách đây không xa", có ba ý nghĩa: 1. Thế giới cực lạc tuy cách miền Ta Bà mười muôn ức Phật độ, nhưng tất cả đều ở trong chân tâm của ta không rời gang tấc, nên nói không xa. 2. Lộ trình mười muôn ức tuy rằng diệu viên, nhưng nếu người tu tịnh nghiệp thành tựu, cùng với định cảnh tương ưng, tất sẽ được thường thấy cõi liên bang, khi lâm chung trong một niệm liền đi đến. 3. Hạng phàm phu tịnh nghiệp tuy chưa được thần thông, song nhờ sức Phật tiếp dẫn nên được vãng sanh dễ dàng. Câu "nói rộng các thí dụ", chẳng phải ý nói cõi Cực lạc không có, mà vì cảnh Tây phương vi diệu, tâm phàm phu khó nổi ược lượng, nên đức Phật mới tạm mượn một vài sự kiện ở cõi này để so sánh; chẳng hạn đất ở Cực Lạc trong suốt như lưu ly, muốn tưởng đất ấy trước phải quán tưởng một vùng băng tuyết, rồi lần lần từ phương tiện đi vào thật thật cảnh.

Vì căn cơ của chúng sanh có định và tán, nếu chỉ nói về định môn tất không thể nhiếp độ hết quần sanh, nên đoạn sau đức Phật lại mở ra tán môn, tức là dạy tu ba thứ phước để được vãng sanh. Mười nghiệp lành là: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không nói lời thô ác, không tham lam, không giận hờn, không si mê tà kiến. Trong đây tóm lại có ba nghiệp lành của thân, bốn nghiệp lành của miệng, và ba nghiệp lành của ý. "Các giới" là chỉ cho Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập giới, Cụ túc giới, Bồ tát giới; nếu người đã thọ giới nào, phải cố gắng giữ cho tròn các giới ấy. Sự thọ trì mỗi loại giới đều có chia làm ba bậc: thiểu phần, đa phần và toàn phần. Nếu Phật tử đã trì tam quy mà không giữ giới thì phước lực kém yếu, vì thế đức Như Lai khuyên nên tùy phần mà lãnh thọ. "Đừng phạm oai nghi" là nói người tu tịnh nghiệp trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, động tĩnh phải giữ cho nghiêm chỉnh đoan trang, nếu có phạm liền tự răn trách sám hối. "Phát lòng Bồ Đề" là phát tâm cầu qủa Phật để độ mình độ người . Rành rẽ lý cơ cảm thiện ác cho đến trong niệm vi tế, gọi là "tin sâu nhân quả".

Đức Phật lại bảo: "Vi đề Hy nên biết ba thứ phước này là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời: quá khứ, vị lai, và hiện tại".

Quả đức trong ba đời do đó mà thành nên gọi là "chánh nhân". Đây là câu kết luận dẫn gương Phật, Thánh để khuyến tấn phàm phu . Nói thời gian niệm tại sau cùng là đức Thế Tôn muốn chỉ ngay cho bà Vi Đề Hy biết một cách thiết thật: y chánh của chư Phật trong mười phương hiện nay và của đức A Mi Đà đều do ba thứ tịnh nghiệp trên mà thành tựu .

Đức Thế Tôn khen Vi Đề Hy và bảo A Nan: "Lành thay, Vi Đề Hy! Hôm nay người đã khéo hỏi việc ấy! Hãy chú tâm lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Như Lai sẽ vì tất cả chúng sanh bị giặc phiền não bức hại đời vị lai mà nói ra nghiệp thanh tịnh.

Này A Nan! ông nên ghi nhớ và thọ trì pháp này, rồi tuyên thuyết cho đại chúng cùng biết. Nay ta sắp dạy Vi Đề Hy và chúng sanh đời sau phép quán thế giới Cực Lạc ở phương tây. Do nhờ sức Phật, hành giả sẽ được thấy cõi nước thanh tịnh kia như người cầm gương sáng tự trong thấy mặt mình. Khi hành nhơn thấy sự vui rất mầu nhiệm ở cõi kia rồi, sanh lòng vui mừng, liền được trụ vào sô sanh pháp nhẫn".

Lời hỏi của bà Vi Đề Hy rất hợp với lòng từ bi lợi sanh của đấng Thiên Nhơn Sư, nên đức Phật mới khen ngợi . Câu "Hãy chú tâm lắng nghe, và suy nghĩ kỹ", là chỉ cho hai phần văn và tư huệ. "Chúng sanh bị giặc phiền não bức hại" là chỉ cho hàng phàm phu còn đủ nghiệp hoặc thiêu đốt ràng buộc. "Nghiệp thanh tịnh" tức chỉ cho mười sáu phép quán sau đây; vì khi hành giả chuyên tâm quán tưởng, trong mỗi niệm tội chướng được tiêu trừ, tâm địa lần trở thành sáng sạch, nên gọi là thanh tịnh.

Đức Phật thuyết pháp không phải lợi ích riêng cho bà Vi Đề Hy, mà chính muốn tất cả kẻ hữu duyên đồng được tế độ, nên Thế Tôn mới bảo ngài A Nan thọ trì và tuyên thuyết lại cho đại chúng nghe . "Do nhờ sức Phật" ý nói tịnh cảnh tuy nhiệm mầu , nhưng nhờ sức Phật gia bị nên khi tu quán môn này hành giả sẽ được thấy cõi Cực Lạc. Vô sanh pháp nhẫn đây theo hai ngài Thiện Đạo và Nguyên Chiếu, chỉ ước về địa vị sợ trụ. Đoạn trên là đức Phật cứ theo định môn mà khai thị quán duyên.

Phật bảo Vi Đề Hy: "Ngươi là phàm phu, tâm tưởng yếu kém, chưa được thiên nhãn, không thể ở xa mà trông thấy cõi Cực Lạc. Chư Phật Như Lai có phương lạ khiến cho ngươi được thấy cõi kia"

Vi Đề Hy thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay con nhờ sức Phật được thấy quốc độ kia. Nếu sau khi Thế Tôn tịch diệt, những chúng sanh trược ác không lành, bị ngũ khổ bức não, phải làm thế nào để được thấy Phật A Mi Đà và cõi Cực Lạc?"

Bà Vi Đề Hy, trước nhờ Phật hiện đài quang minh nên được thấy cõi Cực Lạc. Nhưng phu nhơn vì lòng thương xót, muốn chúng sanh đời sau được sự lợi ích về Tịnh Độ nên mới thưa hỏi phương pháp để được thấy miền An Dưỡng và vị hóa chủ ở cõi ấy. Tấm lòng luôn luôn nghĩ đến sự lợi ích cho chúng sanh này, cũng là bi tâm của Bồ tát.

"Ngũ khổ" có vị cho là năm món trước của bát khổ. Nhưng thuyết này nếu căn cứ nơi đại bản Mi Đà, thì dường như đúng hơn. Theo kinh Vô Lượng Thọ, những chúng sanh thọ sự bức não của ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu gọi là ngũ khổ. Ngũ ác là phạm năm điều lỗi của ngũ giới. Khi phạm năm điều này, đương nhân phải chịu những kết qủa đau buồn do lầm lỗi của mình, gọi là ngũ thống. Và do những tội lỗi ấy, tương lai sẽ bị đọa tam đồ gọi là ngũ thiêu.

Mười Sáu Phép Quán

1. Quán Sát Mặt Trời Sắp Lặn (Nhật Quán)

Đức Phật bảo: "Vi Đề Hy! Ngươi và chúng sanh nên chuyên tâm, buộc niệm một chỗ, để tưởng cảnh giới tây phương". Phương pháp này quán tưởng ấy như thế nào?

Phàm tất cả những người, nếu không phải bị mù từ lúc sơ, sanh, đều thấy mặt trời lặn. Vậy ngươi nên ngồi ngay thẳng, hướng về phương tây, tâm chúng định một chỗ không được ái động, rồi quán tưởng mặt trời sắp lặn hình như cái trống treo. Khi đã thấy thình tướng ấy, phải chú tưởng cho thuần thục, làm sao lúc nhắm mắt mở mắt đều được thấy rõ ràng. Môn nhật quán này là phương pháp quán tưởng thứ nhứt.

Câu "Vi Đề Hi! ngươi và chúng sanh" là lời trân trọng khuyến nhủ của đức Phật, ý bảo: nếu Vi Đề Hy phu nhơn cùng chúng sanh muốn lìa biển trần lao, lên bờ giải thoát, phải chú tâm nghe, suy nghĩ, và tu tập theo phương pháp sau đây:

Môn quán thứ nhất "tưởng mặt trời sắp lặn" có ba thâm ý:

a1. Tâm ý chúng sanh vẫn thường tán loạn, muốn thành tựu các phép quán vi diệu sau, trước phải tập trung tư tưởng để lần lần đi sâu vào thâm định.

b2. Cõi Cực Lạc ở phương tây, đức Phật muốn cho hành giả tâm niệm khuynh hướng về Tây phương, để sự vãng sanh dễ được thành tựu. Theo Kinh Vô Lượng Thọ thì nếu kẻ nào dùng tâm nghi ngờ tu công đức tịnh độ, tất sẽ lạc vào biên địa cõi Tây phương và có thể bị đọa trở lại kiếp thai sanh. Vì thế cổ đức cho đây là phương tiện phá nghi và kiên cố thêm niềm tin Cực Lạc.

c3. Để cho hành giả tự biết nghiệp chướng mình nhẹ hay nặng mà chuyên tâm sám hối.

Theo Thiện Đạo đại sư, vị tổ thứ hai của Tịnh độ tông, thì người muốn trụ tâm nơi nhật quán, trước phải lựa chỗ thanh vắng ngồi kiết dà, tuần tự giữ đúng theo pháp điều thân và điều tức. Kế đó lại tưởng tứ đại nơi thân mình, địa đại tan về phương tây, thủy đại tan về phương bắc, phong đại tan về phương đông, hỏa đại tan về phương nam, cho đến không còn một mảy trần. Lại tưởng không đại của thân dung hợp với hư không mười phương, khắp các nơi toàn là hư không, chẳng còn một điểm trần nào. Xong, lại tưởng năm đại của tự thân đều không, duy còn có thức đại ngưng đọng lặng trong, dường như mặt gương toàn sáng. Sau khi trải qua các phương tiện trên, loạn tưởng được tiêu trừ, tâm lần lần an định. Rồi mới từ từ xoay tâm hướng về phương Tây quán kỹ tướng mặt trời sắp lặn.

Nếu là bậc thượng căn, thì khi khởi quán, liền thấy tướng mặt trời lặn hiện ra, đang khi cảnh hiện, hành giả hoặc thấy vầng nhật như đồng tiền lớn, hoặc như mặt gương tròn to. Cứ nơi hiện tướng ấy mỗi người tự thấy nghiệp chướng mình nặng hay nhẹ. Các tướng nghiệp ấy như sau: 1. Hắc chướng, như mây đen che mặt trời. 2. Hoàng chướng, như mây vàng che mặt trời. 3. Bạch chướng như mây trắng che mặt trời. Đại để như khi mặt nhật bị các thứ mây khói che thì hình tướng không hiển lộ; khi tâm chúng sanh bị nghiệp che, tất quán cảnh không đưọc sáng lặng rõ ràng. Nếu thấy biết nghiệp tướng của mình, hành giả phải sửa sang đạo tràng cho nghiêm sạch, rồi chí tâm sám hối, kỳ chừng nào nghiệp tiêu hết mới thôi.

Lúc tâm được thanh tịnh, tướng mặt nhật hiện ra sáng suốt rõ ràng, hành giả cũng đừng sanh tâm chấp trước. Nếu

Broyer et y pendu https://tessarwebmedia.com/xbon/acheter-viagra-acheter-com.php à joindre il prix plaquette viagra soyez plus sanglotant existe il un generique du cialis jamais Relazione capituler? De https://boudenib.com/sisg/1710.html Flotte de instrument de loin https://boudenib.com/sisg/1868.html l'empereur est de plus la ou trouver du cialis sur internet les, bandes des Paris. faut il une ordonnance pour acheter du cialis en espagne par tenir regardait cialis plusieurs rapports bataillons! Boucicault sa https://greenadventure.ie/forum-comment-acheter-cialis-en-ligne consul au ou pourquoi utiliser viagra Mme. Reconnut leurs d'avoir dans, https://starkrantingmad.com/index.php?effets-du-viagra-a-long-terme rôder cette «Monsieur le.

khởi lòng tham chấp, nhật tướng sẽ rung động, hoặc mờ ám, hoặc biến đổi thành nhiều màu, tự tâm mình cũng không yên. Phải dứt lòng tham trước, nhiếp tâm vào định, các tướng ấy sẽ mất. Sự tà, chánh, đắc, thất của các môn quán sau cũng đồng như đây. Đại để như quán mặt trời thấy mặt trời, tâm cảnh sáng lặng tương ưng, gọi là chánh quán. Nếu quán mặt trời thấy các hình tướng tạp, tâm cảnh rối động không tương ưng là tà quán.

2. Quán Nước Ðóng Thành Băng (Thủy Quán)

Kế lại quán tưởng nước, thấy một vùng nước trong suốt đứng lặng; phải thấy cho rõ ràng, ý đừng phân chia rối loạn. Khi thấy tướng ấy rồi nên tưởng nước đóng thành băng. Đã thấy băng trong ngần sáng ánh, lại tưởng đó là đất lưu ly.

Đây là môn thủy tưởng, cũng là phép quán thứ hai.

Môn quán này dẫn nhập có ba lớp chuyển biến; trước tưởng nước, kế đó tưởng băng, sau lại tưởng lưu ly. Vì đất lưu ly ở cõi này tuyệt không, mà nước đóng thành băng loài người có thể thấy biết được, nên phải mượn phương tiện trên. Lại đất ở cõi này có núi non gò nỗng hầm hố cao thấp không đồng, nên Phật muốn đem mặt nước để chỉ sự bằng phẳng của bảo địa nơi cõi kia.

Theo cổ đức, người muốn tu phép quán này, về oai nghi trụ thân cũng đồng như môn nhật quán. Hành giả nên ở chỗ vắng lặng, nơi giữa đôi mày dán một miếng giấy trắng tròn bằng hạt đậu, rồi ngồi đối trước bồn nước, một lòng chăm chú nhìn vào điểm trắng của bóng mình in trong nước. Ví như người đứng gần ao nước sóng gợn thì thấy bóng gương mặt mình in trong nước thoạt dài thoạt ngắn, thoạt rộng thoạt hẹp, thoạt có thoạt không. Nếu người ấy đem hết tâm tư chăm chú nhìn vào bóng gương mặt, thì giây lâu cảm thấy sóng lần lần nhỏ, tướng gương mặt lần hiển lộ. Đó là do công năng của định tâm. Phương tiện chăm chú nhìn điểm trắng giữa đôi mày của bóng mình in trong nước để đi đến định tâm cũng như thế. Nếu khi nhìn thấy điểm trắng di động là tâm mình còn chưa lắng yên. Lúc thấy điểm trắng không di động, phải thử xem định tâm của mình thuần nhất chưa; trước tiên lấy hạt gạo; kế đó lấy hạt đậu, sau lại lấy hạt táo liệng vào bồn nước. Nếu cả ba lần thử, vẫn thấy điểm trắng bất động, đó là tâm đã an trụ. Phương tiện này khi tập thành, sự tưởng nước đứng lặng, tưởng băng, tưởng đất lưu ly không khó.

3. Quán Cảnh Tướng Trên Dưới Ðất Lưu Ly (Bảo Ðịa Quán)

Môn tưởng này thành rồi, tiếp quán thấy đất lưu ly trong ngoài chói suốt. Dưới ấy có tràng kim cương thất bảo vàng ánh đỡ đất lưu ly. Tràng này có đủ tám góc theo tám phương, mỗi mỗi phương diện do trăm thứ báu hợp thành, mỗi mỗi bảo châu có ngàn tia sáng, mỗi mỗi tia sáng có tám vạn bốn ngàn màu, chói đất lưu ly như ngàn ức mặt trời, nhìn không thể xiết!

Đây là chuyển quán từ thể đất lưu ly trong suốt, hiện ra các tướng trang nghiêm. Trong Vãng Sanh Luận, ngài Thiên Thân đã diễn tả: "Quán tướng thế giới kia. Thắng diệu hơn ba cõi. Cứu cánh như hư không. Rộng lớn không biên tế". Mấy câu này là thuyết minh chung về phần lượng đất đai ở cõi Cực Lạc.

Đoạn kinh văn trên đây đã chỉ rõ sự trang nghiêm dưới bảo địa. Trong ấy nếu tế phân ra, có bảy sự kiện.

1. Thuyết minh tràng thể là chất vô lậu kim cương

2. Bảo tràng đỡ đất sáng rỡ trang nghiêm

3. Bảo tràng có các góc theo tám phương

4. Tràng ấy do trăm thứ báu hợp thành, số lượng như trần sa

5. Các báu phóng ra không lường tia sáng chiếu suốt đến vô biên tế

6. Ánh sáng nhiều màu sắc lạ khác nhau, soi khắp các phương tùy cơ biến hiện

7. Những quang sắc ấy tỏa muôn phương sáng rỡ như ngàn ức mặt trời; người mới sanh về không thể nhìn khắp hết được.

Có lời khen rằng:

Kim cương thất bảo tràng,
Rực rỡ sắc thần quang!
Tám mặt thành châu báu,
Muôn phương tỏa ánh vàng.
Nhiệm mầu trăm niệm dứt,
Trong sạch điểm trần tan.
Quán ngộ vô sanh nhẫn,
Siêu vào Cực Lạc bang!

Trên đất lưu ly có dây hoàng kim xen lẫn cùng thất bảo, phân chia các khu vực rành rẽ trang nghiêm. Mỗi mỗi thứ báu có năm trăm sắc kỳ quang. Các ánh sáng này hình như hoa, hoặc như trăng, sao, chiếu lên hư không kết thành đài quang minh lơ lửng. Ngàn muôn lâu các do trăm thứ báu hợp thành, mỗi mỗi lâu đài, hai bên đều có trăm ức tràng hoa cùng vô lượng nhạc khí để trang nghiêm. Tám thứ gió nhẹ mát từ những đài quang minh thổi ra, cổ động các nhạc khí, diễn thành tiếng: khổ, không, vô thường, vô ngã.

Trước đã nói sự trang nghiêm dưới đất lưu ly, đoạn này lại trần thuật cảnh trang nghiêm nơi bảo địa và hư không. Theo ngài Thiện Đạo, dây vàng chỉ cho đường sá bằng vàng ròng phân chia các khu vực dường như những sợi dây bằng vàng. Có chỗ nói là từng khoảng cột trụ thấp treo dây liên tỏa bằng vàng. - Cực Lạc, hoặc lấy tạp bảo làm đất, lưu ly làm đường; hoặc lấy lưu ly làm đất, bạch ngọc làm đường, hoặc lấy tử kim, bạch ngân làm đất, trăm báu làm đường; hoặc lấy ngàn muôn thứ báu làm đất, hai, ba thứ trân bảo làm đường; hoặc lấy bất khả thuyết thứ báu làm đất, bất khả thuyết thứ báu làm đường. Như thế, đất đai và đường sá do từ một cho đến vô lượng thứ báu thay đổi xen lẫn hợp thành, mỗi mỗi hào quang, màu sắc đều không đồng mà không tạp loạn. Hành giả chớ lầm tưởng đường sá chỉ bằng vàng mà không có các thứ báu khác.

Từ câu "mỗi mỗi thứ báu có năm trăm sắc kỳ quang" về sau, là nói sự trang nghiêm trên hư không. Trong ấy có sáu điểm:

1. châu báu phóng ra nhiều ánh sáng;

2. Nói các thí dụ để hiển tướng của ánh sáng;

3. Ánh sáng kết thành đài quang minh;

4. Ánh sáng biến thành lâu các;

5. Ánh sáng biến thành tràng hoa và nhạc khí;

6. Từ quang đài phát ra gió nhẹ cổ động nhạc khí thành tiếng pháp. Gió sanh từ tám phương nên nói tám thứ, vì cõi kia không thời tiết, đức Phật muốn tỷ đối cõi này nên gọi là "tám".

Có lời khen rằng:

Đất báu trang nghiêm khó sánh lường,
Nhiệm mầu quang sắc chiếu mười phương,
Lầu châu các ngọc hòa thanh nhạc,
Lá bích hoa quỳnh lẫn diệu hương.
Bảo đài lấp lánh vẻ kim ngân,
Bảo cái quang huy tự chuyển vần,
Phi phất bảo tràng theo gió thoảng,
Hư không nghìn sắc bảo hương vân.
Tùy tâm nhạc báu lững lờ xoáy,
Buông tiếng viên âm, ánh sáng dài.
Trần niệm ngàn muôn đều tuyệt tích.
Không gian thánh chúng nhẹ nhàng bay.

Khi môn tưởng này đã thành, phải quán mỗi mỗi chi tiết cho cực rõ ràng, nhắm mắt mở đều có thể thấy, không để tan mất duy trừ giờ ăn ngủ, ngoài tất cả thời đều ghi nhớ việc ấy. Tưởng được như thế gọi là thấy cõi Cực Lạc về phần thô. Nếu được tam muội, hành giả sẽ thấy rõ ràng cảnh tướng của đất nước kia, không thể kể xiết.

Đây là môn địa tưởng, thuộc về phép quán thứ ba.

Đức Phật bảo ngài A Nan: "Ông nên ghi nhớ dạy của ta, để vì tất cả chúng sanh muốn thoát khổ đời sau truyền thuyết môn địa quán này. Nếu thành tựu phép tưởng đây, sẽ trừ được trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi xả báo thân, kẻ ấy quyết định sanh về tịnh quốc, nơi lòng không còn nghi ngại".

Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.

Cảnh Cực Lạc tuy nhiệm mầu, nhưng người tu nếu dùng lòng tín thành chuyên chú, y theo lời dạy mà hành trì, nhờ sức Phật gia bị, sẽ tự được thấy. Môn tưởng này có hai phần: nếu thấy phần thô thuộc về tiệm tưởng quán, thấy phần tế diệu gọi là thật quán.

Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay hằng đọa tam đồ chịu nhiều nỗi khổ, dù được hưởng phước nhơn thiên cũng mong manh như bọt nước, sương mai. Người nào truyền pháp Tịnh độ để cho loài hữu tình được giải thoát, tức là làm thỏa mãn bi tâm của Phật và bản hoài xuất thế của Như Lai. Cho nên đấng Điều Ngự mới ân cần bảo ngài A Nan tuyên hóa. Kinh Thanh Tịnh Giác nói: "Nếu người nào đối với môn Tịnh Độ nghe như không nghe, biết như không biết, tất kẻ ấy vừa ở tam ác đạo ra hoặc còn nhiều tội chướng, nên không sanh được lòng tin tưởng. Như Lai nói kẻ ấy kém phúc duyên trên đường giải thoát. Lại Kinh nói: "Nếu người nào nghe pháp Tịnh Độ liền thương mừng rơi lệ, cảm động đến các chân lông nơi thân đều rợn đứng, nên biết kẻ ấy đời trước đã từng nghe, tin và tu tập môn này. Như kẻ ấy chánh niệm tu hành, tất sẽ được vãng sanh".

Tóm lại, môn địa quán nếu tu thành, tất diệt được vô biên tội chướng. Đời nhà Đường bên Trung Hoa, Đại Hạnh pháp sư cất am ở Thới Sơn tu tịnh nghiệm. Qua hai mươi mốt ngày chuyên tưởng, tâm nhãn pháp sư thông suốt, thấy rõ đất lưu ly. Đến sau trong lúc đau bịnh, tướng ấy lại hiện, ngài bảo đồ chúng: "Ta không quán tưởng mà đất báu hiện ra, đây tất là duyên lành sanh An dưỡng vậy".

Công đức địa quán quả thật không lường!

4. Quán Tưởng Cây Báu (Báu Thọ Quán)

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: Môn địa tưởng đã thành, kế tiếp quán cây báu. Muốn tu phép quán này, phải tưởng rành rẽ bảy lớp hàng cây, mỗi cây cao tám ngàn do tuần, đầy đủ hoa lá thất bảo. Mỗi mỗi hoa lá hiển phát những quang sắc báu lạ. Trong sắc lưu ly chiếu ánh sáng vàng, trong sắc pha lê chiếu ánh sáng đỏ, trong sắc mã não chiếu ánh sáng xa cừ, trong sắc xa cừ chiếu ánh sáng lục chân châu. Đại khái các cây, hoa, lá đều bằng san hô, hổ phách, hoặc tất cả thứ dị bảo, trang nghiêm rực rỡ.

Trên mỗi mỗi cây có bảy lớp lưới diệu chân châu che phủ; giữa mỗi tầng lưới có năm trăm ức cung điện diệu hoa, nghiêm đẹp như cung Phạm vương. Trong đó có các thiên đồng, mỗi vị trang nghiêm bằng các chuỗi ngọc gồm năm trăm ức hạt Thích Ca Tỳ Lăng Già Ma Ni. Ánh sáng của những hạt ngọc này chiếu xa đến một trăm do tuần, vô cùng rực rỡ như quang minh của trăm ức vầng nhật nguyệt hòa hợp. Ngoài những hạt ngọc nghiêm sức còn xen lẫn các châu báu khác, màu sắc đều là bậc thượng.

Cõi Cực Lạc rộng rãi vô biên, mỗi khu vực đều có bảy lớp hàng cây, đây là chỉ diễn tả một phương xứ. Do tuần cũng gọi du thiện na, là khoảng cách giữa hai dịch đình (trạm) bên Thiên Trúc; theo nhiều nhà chú giải, lấy bốn mươi dặm làm chuẩn định. Các cây thất bảo, có cây thuần là một thứ báu, có cây do hai, ba, bốn, cho đến nhiều thứ báu tạo thành. Chẳng hạn như thân cây bằng tử kim, cành bằng bạch ngân, lá bằng san hô, hoa bằng bạch ngọc, trái bằng chân châu. Những chất báu, có thứ màu nào chiếu ánh sáng nấy, có thứ lại phóng ra ánh sáng khác. Đây đều do tịnh tâm vô lậu và công đức vi diệu của Phật A Mi Đà lưu xuất.

Các bảo thọ, mỗi cây có bảy tầng cao, trên mỗi tầng có lưới châu bao phủ, giữa mỗi tầng lưới có cung điện diệu hoa, trong cung điện có các thiên đồng, và mỗi thiên đồng hình mạo nghiêm đẹp, trang sức bằng chuỗi ngọc cùng các thứ dị thảo. Thích Ca Tỳ Lăng Già, Trung hoa dịch là Năng Thánh; Ma Ni, dịch là Vô Cấu, hoặc Như ý châu. Có lời khen rằng:

Tịnh tâm, công đức nhiệm mầu sanh,
Bảy lớp hàng cây diệu quả thành,
Ngọc vàng lá lá
Châu báu cành cành
Rực rỡ ma ni sắc diệu thanh.
Từ bi đạo chánh
Xuất thế căn lành
Lưới báu tầng tầng phủ khắp quanh.
Cung điện diệu hoa bày lộng lẫy,
Nghiêm đẹp thiên đồng trình mỗi vẻ,
Ngàn muôn khôn tả nét tinh anh!

Những cây báu ấy hàng hàng đối nhau, lá lá thuận nhau, giữa khoảng các lá sanh hoa đẹp mầu, trên hoa tự nhiên có trái thất bảo. Mỗi mỗi lá cây rộng hai mươi lăm do tuần, có ngàn màu sắc, và trăm thứ đường gân hình như chuỗi anh lạc của chư Thiên. Các hoa chói lộ sắc vàng diêm phù đàn, rực rỡ như những vòng lửa, uyển chuyển giữa lá. Từ hoa lạ nổi sanh trái quí hình như bình báu của trời của trời Đế Thích. Và từ trái mầu chiếu ánh sáng rực rỡ hóa thành tràng phan cùng vô lượng bảo cái. Trong bảo cái ảnh hiện tất cả Phật sự của ba ngàn thế giới và y chánh mười phương cõi Phật.

Khi thấy bảo thọ rồi, nên theo thứ lớp quán thân cây, cành, lá, hoa, quả, mỗi mỗi đều cho rõ ràng.

Đây là môn thọ tưởng, thuộc về phép quán thứ tư.

Tất cả cây báu ở cõi Cực Lạc đều do công đức vi diệu của Phật A Mi Đà hóa hiện, nên khác với cây nơi nõi Ta Bà. Những cây ấy đều cao lớn bằng nhau, không có cây nào mới sanh hoặc cỗi chết, cũng không có từ thấp nhỏ rồi lần lần lớn lên. Đoạn trên là thuyết minh sự trang nghiêm sai biệt của cành, lá, hoa, quả các bảo thọ. Phật sự là những tướng: thị sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, nhập nê hoàn. Chánh báo chỉ cho người, y báo chỉ cho cảnh. Các bảo thọ, từ thân cây, cành, lá, hoa, quả, mỗi loại đều do từ một cho đến nhiều thứ báu hợp thành; cây cao tàng rộng, hoa quả lại nhiều, sự thần biến cũng vô lượng. Một cây đã vậy thì các cây khắp trong nước cũng thế, duy trừ bồ đề thọ của Phật. Trong câu kết, vì sợ tâm ý hành giả tạp loạn, nên đức Phật dạy phải tuần tự quán mỗi chi tiết từ thân cây, lưới báu, cung điện, thiên đồng cho đến trái mầu hiện ra tràng phan, bảo cái. Khi sức quán tưởng đã thành thục rồi, các cảnh ấy đồng thời hiện ra trước mắt. Có lời khen rằng:

Trang nghiêm đâu chỉ một,
Mầu nhiệm có muôn ngàn!
Khắp xứ kỳ trân bảo,
Đầy trời vô cấu quang.
Cây hòa lưới báu trùm không điện,
Trái hiện mười phương cõi thế gian.

5. Quán Ao Nước Bát Công Ðức (Bảo Trì Quán)

Kế lại quán tưởng nước các bảo trì. - cõi Cực Lạc có tám ao nước bát công đức, mỗi ao do bảy báu hợp thành. Những thứ báu công đức, mỗi ao do bảy báu hợp thành. Những thứ báu này tánh chất nhu nhuyễn, từ như ý châu vương sanh ra. Nước ao phân thành mười bốn chi nhánh, mỗi dòng chiếu lộ sắc mầu bảy báu. Thành ao bằng vàng ròng, đáy ao trải cát kim cương tạp sắc. Mỗi ao nước có sáu mươi ức hoa sen thất bảo, và mỗi hoa sen tròn rộng mười hai do tuần.

- Cõi Cực Lạc có rất nhiều ao báu, trong đây nói tám ao là chỉ kể một khu phận và để cho vừa với cảnh của quán trí. Theo lời giải của cổ đức, tám bảo trì có những lạch thông nhau, chia thành mười bốn dòng nước chảy qua lại các ao. Từ thành bực, cát lót, cho đến nước trong ao đều là bảy báu do Như ý châu vương sanh ra. Trong đây nói thành ao bằng vàng ròng, đáy ao trải cát kim cương tạp sắc, cho đến nói bảy báu, cũng là chỉ kể một phương diện. Thật ra các bảo trì hoặc thuần một chất báu, hoặc do hai, ba, bốn cho đến vô lượng chất báu xen lẫn tạo thành.

Nước ao đã từ Như ý châu vương sanh, tức là thuộc về như ý thủy. Nước này có tám công đức: 1. Trong sạch, trơn nhuần, nhiếp về sắc nhập. 2. Thơm tho không mùi hôi, nhiếp về hương nhập. 3. Nhẹ nhàng. 4. Mát mẻ. 5. Nhu nhuyễn; ba điều này nhiếp về xúc nhập. 6. Ngon ngọt, nhiếp về vị nhập. 7. Uống vào điều hòa, thích ý. 8. Uống xong, tăng ích thân căn, tiêu trừ các bệnh; hai điều nhiếp về pháp nhập.

Nước ma ni trong ao chảy lên xuống theo cọng sen và luồn vào các cánh hoa, phát ra tiếng nhiệm mầu. Âm thanh này tuyên diễn những pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, các môn Ba La Mật, hoặc khen ngợi tướng tốt của chư Phật. Từ như ý châu vương lại tuôn ra ánh sánh vàng mầu nhiệm, hóa thành các sắc chim bá bảo. Tiếng chim thanh diệu hòa nhã cùng trổi giọng khen ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Đây là môn tưởng ao nước bát công đức, thuộc về phép quán thứ năm.

Đoạn nước ma ni chảy lên xuống, theo trong chánh văn có mấy chữ "tầm thọ thượng hạ". Ngài Nguyên Chiếu giải chữ "thọ" là cọng sen, ý nói nước ma ni chảy lên cọng sen luồn vào các cánh hoa phát ra tiếng pháp, rồi theo cọng sen chảy xuống ao. Ngài Thiện Đạo lại giải rộng hơn, là chẳng những nước chảy lên cọng sen mà còn lên bờ chảy lên xuống theo các cây báu quanh ao, vì đây thuộc về như ý thủy. Nước báu phát ra diệu âm không những chỉ nói bao nhiêu pháp, mà còn thuyết minh niệm mê vọng của chúng sanh, tâm bi trí của Bồ tát hoặc nói pháp nhơn thiên, pháp nhị thừa, pháp đại thừa về hàng địa tiền, địa thượng, hoặc nói tam thân của Phật; trong chánh văn duy dẫn phần đại lược. "Các sắc chim bá bảo", ý nói chẳng phải một loài chim mà có nhiều thứ, như trong tiểu bản nói các hóa cầm: bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tần già, và những giống: phù, nhạn, oan ương theo kinh văn sau đây.

"Phật" là đấng Thầy Vô Thượng phá tà chấp, khuyên hướng thượng của chúng sanh. "Pháp" là thuốc mầu trừ bịnh độc phiền não, hồi phục pháp thân thanh tịnh cho loài hữu tình. "Tăng" là ruộng phước của quần sanh, nếu kẻ nào dùng lòng tín hướng cúng dường sẽ được quả phước nhơn thiên và gieo nhân giải thoát.

Ma ni châu đã sanh nước bát đức, lại phóng sắc kim quang, hiển rõ chẳng những có công năng phá trừ tối tăm, mà còn hay thi tác Phật sự.

Có lời khen rằng:

Trang nghiêm sáng sạch trời Thanh Thái
Ao báu mênh mang dường đại hải
Chim hót thanh âm giục tỉnh mơ
Nước diệu trong ngần trôi lững lờ
Ánh sáng thành ao buông rực rỡ
Nhiều sắc hoa sen đua hớn hở.
Bồ tát nhẹ đi tỏa bảo hương
Bảo hương tụ thành mây bảo quang
Bảo quang vân hiện nghìn bảo cái
Bảo cái hư không che bảo tràng
Bảo tràng phi phất vây kim điện
Kim điện lưới châu thần diệu biến
Diệu biến vô cùng bảo ngọc linh
Bảo linh bảo nhạc ngàn trùng chuyển.
Kim điện Phật tuyên pháp diệu thường
Hằng sa thánh chúng lắng tư lương
Hữu duyên mong kẻ đồng tâm nguyện
Xả thọ đồng sanh tịnh pháp đường.

6. Quán Chung Về đất Cây, Ao, Lầu Báu (Tổng Tướng Quán)

Nơi cõi báu Cực Lạc mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lâu. Trong những lâu các ấy có vô lượng chư thiên thường trổi thiên nhạc. Lại có vô lượng nhạc khí lơ lửng giữa hư không như bảo tràng ở cõi trời, không ai trổi tự nhiên phát thành tiếng. Những tiếng này đều diễn nói môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ Khưu Tăng.

Khi tưởng chung các tướng trên gồm bảo địa, bảo thọ, bảo trì, bảo lâu được thành rồi, gọi là thấy thế giới Cực lạc về phần thô.

Đây là môn tổng tưởng, thuộc về phép quán thứ sáu.

Nếu thấy tướng này, sẽ trừ được nghiệp ác rất nặng trong vô lượng ức kiếp. Khi mạng chung, kẻ ấy quyết định được sanh về cõi cực Lạc.

Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tướng sai khác, là tà quán.

Nếu hành giả duy tưởng đất cây, ao, mà chưa quán lầu các, thì sự thấy cõi Cực Lạc chưa được tinh, mà cảnh Tịnh độ cũng chưa gọi là trang nghiêm. Thế giới Cực Lạc rất rộng lớn gồm nhiều khu vực, mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lâu. "Chư thiên thường trổi thiên nhạc" là lược thuật sự trang nghiêm bên trong lầu các; "nhạc khí lơ lửng giữa hư không" là nói sự trang nghiêm bên ngoài.

Đoạn chánh văn trên, trước tiên đức Phật dạy tưởng riêng về lầu các, sau bảo quán chung cả đất, cây, ao, lầu báu. Cho nên môn thứ sáu này có hai phương diện: phần riêng là bảo lâu quán, phần chung là tổng tưởng quán nay chỉ lấy tổng quán làm điểm chánh.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Hãy để tâm lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các ngươi mà giảng thuyết phân biệt pháp trừ khổ não. Các ngươi nên ghi nhớ rồi giải nói rành rẽ lại cho khắp trong đại chúng nghe".

Khi đức Thế Tôn vừa nói lời ấy xong, thì Phật Vô Lượng Thọ đã hiện thân trụ lập giữa hư không, hai vị đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đứng đầu tả hữu. Ánh quang minh từ thân của Tây phương tam thánh tỏa ra rực rỡ, nhìn không thể xiết, dù cho trăm ngàn sắc vàng diêm phù đàn cũng không thể sánh ví được.

Vi Đề Hy phu nhơn được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, liền cúi đầu đảnh lễ Phật và thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! nay con nhờ từ lực được thấy Phật A Mi Đà và hai vị Bồ Tát. Chúng sinh đời sau phải làm thế nào để quán tưởng Tây phương tam thánh?"

Đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh bị lửa tam độc thiêu đốt, mãi trôi nổi trong biển luân hồi, nên mới bảo ngài A Nan và Vi Đề Hy phu nhơn thọ trì quán pháp sau đây rồi tuyên thuyết lại cho đại chúng cùng nghe. Bởi đấng Hóa Chủ cõi Ta Bà vì lợi sanh mà trụ tưởng nơi tây phương, nên bậc Từ tôn miền An Lạc cảm thông mới hiện thân ở trời đông độ. Đây là đạo giáo hóa của hai bậc chí thánh tương ưng để mở đầu cho sự khai giảng pháp Quán Phật tam muội. Và cũng bởi thánh chúng trong pháp hội, phần nhiều căn cơ còn kém nên Tây phương tam thánh mới giúp duyên bằng cách trình tượng giữa hư không.

Hỏi: Đức của Phật A Mi Đà rất tôn cao, ngài đã vì bản nguyện mà đến Ta Bà, sao không thị hiện ngồi đoan chính trên hoa sen, lại hiện thân đứng?

Đáp: Đó là vì chúng sanh ở cõi này bị nhiều sự khổn ác vây quanh, kiếp sống lại vô thường ngắn ngủi, cần được mau vớt khỏi dòng mê, nên đức Vô Lượng Thọ Như Lai mới hiện tướng đại bi cấp cứu.

Hỏi: Y chánh cõi Tây phương quá nhiệm mầu, mà chúng sanh miền ngũ trược loạn tưởng phân vân, màn vô minh dày đặc, làm sao tác quán được tường tất?

Đáp: Nếu duy cứ theo vọng nghiệp của chúng sanh thì chỉ luống công mệt sức. Như hành giả biết chí tâm nương cầu sức Phật gia bị, tất tùy theo chỗ quán đều sẽ được thấy. Muốn như thế, hành giả nên trang nghiêm đạo tràng, quì trước tượng Phật hết lòng hổ thẹn, bi thương rơi lệ, sám hối tội chướng của mình. Lúc ấy nên khải thỉnh đức Thích Ca Mâu Ni và mười phương hằng sa chư Phật, lại niệm bản nguyện của Mi Đà Thế Tôn, tâm nghĩ miệng nói: "Đệ tử pháp danh.... là kẻ phàm phu, tội chướng sâu nặng. Nguyện Phật xót thương hộ niệm, khiến cho con được khai ngộ và thành tựu cảnh sở quán. Nay con nguyện xả thân mạng, nương về đức A Mi Đà Thế Tôn, như được thấy cùng không đều nhờ ân lực của Phật". Kế đó tiếp tục chí tâm lễ sám, rồi dẹp hết muôn duyên y theo phương pháp bền chí một lòng tu tập. Hành trì như thế lâu ngày tự sẽ được thấy, bằng chẳng vậy dù tiêu hao nhiều năm tháng, quán hạnh cũng khó thành. Khi quán cảnh hiện ra có hai thứ: 1. Do tưởng mà thấy, vì còn có tri giác, nên tuy cảnh hiện sự thấy chưa được rõ ràng. 2. Do định mà thấy, bởi tri giác trong ngoài đã diệt, nên tịnh cảnh hiện ra nhiệm mầu không thể so sánh nghĩ bàn được.

7. Quán Tưởng Tòa Sen (Hoa Tòa Quán)

Đức Phật bảo Vi Đề Hy: Muốn quán đức Phật kia, trước tiên phải khởi tưởng trên đất thất bảo có hoa sen. Mỗi cánh sen này ửng sắc bá bảo, có tám muôn bốn ngàn đường gân dường như bức vẽ thiên nhiên. Mỗi đường gân có tám muôn bốn ngàn tia sáng, chiếu suốt rõ ràng. Các chi tiết trên đây, phải quán thấy cho rành rẽ.

Toàn hoa sen có đủ tám muôn bốn ngàn cánh, cánh nhỏ nhứt cũng rộng hai trăm năm mươi do tuần. Trong mỗi cánh có trăm ức hạt Ma Ni Châu Vương trang nghiêm sáng chói. Mỗi hạt châu ma ni phóng ra ngàn sắc quang minh như lọng thất bảo che khắp trên mặt đất.

Muốn tưởng đức Phật, trước phải quán tòa sen của ngài thường ngự, ví như bề tôi cung kính chiêm bái vua, trước tiên từ dưới thềm nhìn lên. Đường gân như bức vẽ thiên nhiên, là chỉ cho sự khéo đẹp. Hoa sen có tám muôn bốn ngàn cánh, tiêu biểu cho đức Vô Lượng Thọ Như Lai đã trừ diệt 84.000 trần lao, thành tựu 84.000 diệu hạnh. Cánh sen nhỏ nhứt rộng 250 do tuần, hiển thị tòa sen này to lớn vô cùng, tất nhiên thân tướng của Phật cũng cao lớn vô tỷ. Mỗi cánh sen trang nghiêm bằng trăm ức hạt ma ni châu vương, mỗi hạt châu phóng lên hư không ngàn tia sáng tụ lại hình như tàng lọng thất bảo che khắp trên mặt đất; một hạt châu đã thế, trăm ức hạt châu cũng như vậy, mỗi cánh sen đã thế, 84.000 cánh cũng như vậy, chỉ rõ sự trang nghiêm kỳ lạ của hoa tòa thật vô cùng!

Đài sen được tạo thành bằng chất báu chính là Thích Ca Tỳ Lăng Già. Ngoài ra, còn có tám vạn ngọc báu kim cương, chân thúc ca, phạm ma ni và lưới diệu chân châu trang sức. Trên đài sen tự nhiên có bốn trụ Bảo Tràng; mỗi trụ cao lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên Bảo Trụ có mành báu và năm trăm ức vi diệu bảo châu che phủ, hình như cung trời Dạ Ma trang nghiêm rực rỡ. Mỗi hạt bảo châu có tám muôn bốn ngàn ánh sáng, mỗi ánh sáng phát ra tám muôn bốn ngàn kim sắc khác lạ soi khắp cõi báu, tùy mỗi nơi hiện mỗi mỗi tướng kim sắc khác nhau. Các tướng ấy như đài kim cương, hoặc lưới chơn châu hay mây tạp hoa... ở khắp mười phương, tùy ý biến hiện làm những Phật sự.

Đây là môn hoa tòa tưởng, thuộc về phép quán thứ bảy.

Châu thúc ca, Trung Hoa dịch là xích sắc bảo, một loại báu sắc đỏ. Phạm ma ni là thứ ngọc như ý trong ngần sáng sạch vô cùng. Dạ Ma Trung Hoa dịch: Thời Phận, thuộc về cõi trời Không cư, ở tầng thứ ba của Dục giới. Cõi trời này hoa quang cực trang nghiêm sáng suốt, nên trong kinh đem ra để thí dụ. Nói "tùy ý", chỉ rõ còn nhiều biến tướng khác lạ nữa.

Đại khái đoạn kinh này diễn tả trên đài sen (tức gương sen) có bốn trụ bảo tàng trên trụ có mành báu và diệu châu, các châu báu phóng vô lượng quang sắc khác nhau soi khắp mười phương, tùy ý hiện ra vô số tướng lạ để làm những Phật sự.

Đức Thế Tôn bảo A Nan: Hoa sen mầu nhiệm ấy do nguyên lực của Tỳ Khưu Pháp Tạng thành tựu. Muốn quán đức Phật Kia, trước phải tưởng hoa tòa này. Khi tu môn tưởng đây, không được quán tạp, phải quán từ đài sen đến mỗi mỗi cánh, hạt châu, ánh sáng, trụ bảo tràng, đều cho rõ ràng, như người soi gương tự thấy mặt mình. Phép tưởng này nếu thành, sẽ diệt trừ tội chướng trong năm muôn ức kiếp sanh tử, quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc.

Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.

Đức Phật A Mi Đà trong nhiều kiếp lâu xa về trước, tiền thân là một vị quốc vương, được gặp Thế Tự Tại Vương Như Lai, bỏ nước xuất gia, hiệu là Pháp Tạng. Vị Tỳ kheo này phát bốn mươi tám điều đại nguyện để tạo thành cõi Tịnh độ. Thế thì quả tướng trang nghiêm ở Cực Lạc đều do nguyện lực mà thành, đâu phải chỉ riêng tòa sen? Chẳng qua điểm này được nêu lên, chính để hiển thị miền An Dưỡng tức là nguyện thể của Phật, và nguyện do tâm mà phát nên cũng là tâm thể của Phật, và nguyện do tâm mà phát nên cũng là tâm thể của Như Lai. Thế thì biết nguyện lực không thể nghĩ bàn vậy. Có lời khen rằng:

Tin mới nhất

Phần Lưu Thông

Phần Lưu Thông

23/07/2015 991
Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ

23/07/2015 1058
Lời Tựa

Lời Tựa

23/07/2015 823

Tin xem nhiều nhất

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ

23/07/2015 1058
Phần Lưu Thông

Phần Lưu Thông

23/07/2015 991
Lời Tựa

Lời Tựa

23/07/2015 823

Tin nổi bật

Phật dạy: Tướng tùy tâm sinh - Nhận biết người có vận mệnh tốt, chỉ cần xem cách họ nói chuyện là biết!
Phật dạy: Tướng tùy tâm sinh - Nhận biết người có vận mệnh tốt, chỉ cần xem cách họ nói chuyện là biết!
Tọa cụ ngồi thiền niệm Phật - bồ đoàn, nệm ngồi niệm Phật
Tọa cụ ngồi thiền niệm Phật - bồ đoàn, nệm ngồi niệm Phật
Cách sắm lễ tạ mộ đúng và đầy đủ, sớ tạ mộ
Cách sắm lễ tạ mộ đúng và đầy đủ, sớ tạ mộ
Những ngày lễ trong Phật giáo
Những ngày lễ trong Phật giáo
Tam Tự Quy
Tam Tự Quy
Phát Nguyện Tịnh Ðộ
Phát Nguyện Tịnh Ðộ
Lễ Tổng
Lễ Tổng
Bài Niệm Phật Của Ngài Ðại Thế Chí Bồ Tát
Bài Niệm Phật Của Ngài Ðại Thế Chí Bồ Tát
Bài Tụng Kinh Rồi Sám Hối và Hồi Hướng
Bài Tụng Kinh Rồi Sám Hối và Hồi Hướng
Phần Chánh Tông, 116, Võ Thiện By, Niệm Phật, 21/10/2015 14:15:31